Trang giới thiệu về một số hóa chất, phụ gia và nguyên liệu sử dụng trong các ngành sản xuất thực phẩm: Bánh kẹo, kem, cà phê hòa tan, nước giải khát, bia rượu, đồ hộp, chế biến thủy sản, nước mắm, nước tương; dược phẩm; thức ăn chăn nuôi
Chả cá là một loại chả được
làm từ thịt của các loại cá ăn được. Dựa theo phương thức chế biến món ăn, chả cá
có thể được thực hiện với hai kiểu chính như sau:
Chả làm
từ phần thịt của cá cá thác lác, cá ba sa, cá thu, cá anh vũ, cá rô, cá mè, cá
mối, cá nhồng v.v. băm hoặc xay nhuyễn, phối trộn với các rau
thơm và gia vị khác như rau thì là, hạt tiêu, ớt,
nặn viên tròn hoặc viên ép dẹt, hấp hay rán (hoặc hấp chín sau đó rán vàng). Ăn
kèm trong bữa với cơm trắng, bún, hoặc đưa
vào các bát bún, bánh canh thương phẩm như món bún chả cá Bình Định, bánh canh
chả cá ở Phan Rang, Nha Trang...
Chả cá
Món ăn tổng hợp với
nguyên liệu chính là cá (cá quả, cá lăng, cá chiên, cá tra v.v.)
lọc xương thái lát miếng, tẩm ướp gia vị như riềng, nghệ, mắm tôm, mẻ v.v.
nướng sơ sau đó đảo trong chảo mỡ với rau thì là, hành cắt
khúc; ăn kèm với bún, mắm tôm, lạc rang
và dọc hành ngâm dấm. Nổi tiếng nhất tại Hà Nội,
Việt Nam là món chả cá Lã Vọng.
Quy trình sản xuất chả cá theo quy mô công nghiệp:
1.Rửa lần 1
Nguyên liệu cá tươi,
sống mua về được rửa sạch loại bỏ đất, cát bám trên cá. Sau đó loại bỏ nội tạng
và rửa sạch lại lần nữa bằng nước lạnh. Quá trình này giúp loại bỏ được một số
vi sinh vật trên bề mặt. Chúng ta cần. Chú ý là: nhiệt độ nước
rửa phải thấp hơn 5oC.
Nguyên liệu chả cá
2.Phi lê cá
Sau khi cá được rửa sạch
sẽ được phi lê để lấy thịt cá, lóc bỏ da. Lấy sạch xương trong miếng fillet.
3.Rửa lần 2
Loại bỏ xương, thịt vụn
sót lại trong miếng fillet. Tiến hành rửa trong nước lạnh, nhiệt độ nước rửa
phải thấp hơn 5 oC.
4.Xay nghiền
Quá trình xay nhằm
nghiền nát và phá vỡ cấu trúc cơ thịt cá và tạo ra những hạt nhỏ. Các hạt nhỏ
này tác động qua lại, liên kết lại với nhau bằng liên kết hydrogen, ảnh hưởng
giữa các ion kỵ nước và lực Van Der Waals làm kết dính hỗn hợp, giúp cho hỗn
hợp có cấu trúc tốt hơn.
Thành phần chủ yếu của
nhũ tương là lipid, protein và nước. Protein sẽ bị mất hoạt tính khi ở nhiệt độ
cao. Vì thế trong quá trình xay cần khống chế nhiệt độ xay nhỏ hơn 12 0C.
Nếu nhiệt độ vượt quá 18
– 21 0C sẽ dẫn đến sự tách nước và béo. Quá trình xay ảnh hưởng rất
lớn đến cấu trúc sản phẩm. Nếu xay quá thời gian sản phẩm bị tách nước, thiếu
thời gian thì sản phẩm có mặt cắt không mịn và màu sậm.
5.Phối trộn
Sau quá trình xay thô,
bổ sung phụ gia và gia vị (tinh bộthoặc tinh bột biến tính, polyphosphate, gelatin, sorbitol, đường, muối, tiêu, tỏi, bột ớt, bột ngọt)
vào tiến hành phối trộn và đưa vào xay nhuyễn khối paste. Quá trình xay tạo cho
khối paste có kích thước nhỏ hơn, giúp quá trình trộn dễ dàng và gia vị ngấm
đều khối paste.
Xay, phối trộn chả cá
6.Định hình
Khối paste sau khi xay
xong sẽ được định hình thành những viên tròn.
7.Cấp đông lần 1
Cấp đông sản phẩm ở
nhiệt độ dưới -20oC trước khi bao bột để giữ nguyên hình dạng sản
phẩm và tránh ươn hỏng.
8.Tẩm bột
Bao gồm bao bột và tẩm
bột.
Bao bột nhằm mục đích
tạo lớp dính để bột tẩm bám vào. Bột tẩm cần được khuấy liên tục để tránh vón
cục. Sản phẩm được lăn qua bột khô rồi qua hỗn hợp bột ướt.
Tẩm bột để tạo lớp áo
cho sản phẩm, làm tăng giá trị cảm quan, tăng chất lượng, tạo kết cấu và hình
thức sản phẩm.
9.Chiên
Nhằm mục đích để bột tẩm
( bột xù ) dính chặt vào sản phẩm. Sản phẩm sau chiên sẽ được làm nguội, chờ
cấp đông lần 2.
Dây chuyền chiên chả cá
10.Cấp đông lần 2
Tạo điều kiện cho khâu
xử lý, bao gói dễ dàng hơn và ngăn ngừa sản phẩm bị hỏng trước khi bao gói.
Kiểm tra chất lượng
11.Bao gói
Mục đích của việc bao
gói nhằm bảo vệ sản phẩm khỏi bị giập nát và mất nước trong khi bảo quản lạnh,
nhờ đó sẽ kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm.
Chả cá đóng gói
12.Bảo quản
Sản phẩm được bảo quản ở
nhiệt độ dưới -18oC để đảm bảo chất lượng sản phẩm cao.
--
Video Quy trình sản xuất Chả cá quy mô công nghiệp
---
Tag: Cung cấp các loại nguyên liệu - phụ gia- hóa chất THỰC PHẨM nhập khẩu tại Nha Trang, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, Đắk Nông - 098.996.5501 - vuongcong.kv@gmail.com
Sơ lược Quy trình sản xuất Chocolate từ hạt Ca cao
Hạt ca cao và chocolate
Các
giai đoạn trong sản xuất chocolate từ hạt ca cao đã lên men:
1. Phân loại và tách tạp chất:
Công đoạn này tương đối đơn giản nếu chất lượng hạt tốt: lên men đồng đều, ít
hạt lép, sâu mọt mốc, vv. Tạp chất phải lựa kỹ nhất là kim loại, cát đá vì nếu
đi vào thiết bị trong các công đoạn sau, sẽ dễ dàng làm hư hỏng thiết bị.
2. Rang hạt:
Đây là một trong những khâu quan trọng nhất trong việc quyết định chất lượng
chocolate. Chất lượng rang phụ thuộc rất nhiều vào độ chín đồng đều, nhiệt độ
rang và thời gian rang. Nhiệt độ rang có thể từ 70 đến 140oC trong thời gian 80
phút đến 7 phút. Đối với hạt ca cao dùng sản xuất chocolate sữa, nhiệt độ rang
thường thấp hơn, chỉ 100 – 105 oC nhưng nếu hạt dùng để ép bơ thì nhiệt độ rang
thường 120 -130oC. Sau quá trình rang, độ ẩm giảm từ 7-8% xuống còn 2-3%.
Quá trình rang xảy ra nhiều phản ứng hóa lý rất phức tạp, trong đó có quá trình
bốc hơi nước và hơi acid acetic có trong hạt ca cao lên men, phản ứng Maillard,
phản ứng của polyphenol, flavanols, vv
Trong công nghiệp, người ta thường dùng máy rang thùng quay dạng cầu hay dạng
ống để rang. Nhiệt cấp cho quá trình rang thường là hơi nước quá nhiệt hay khí
đốt LPG sạch hay không khí nóng.
Sau khi rang, hạt phải làm nguội càng nhanh càng tốt để bơ ca cao ít di chuyển
từ hạt ra vỏ ca cao.
3. Nghiền thô:
Nghiền thô nói chung tương đối đơn giản, có thể nghiền búa hay nghiền trục. Tuy
nhiên, nó quan trọng ở chỗ hạt ca cao chỉ nên bị vỡ làm ba, làm tư và càng sinh
ra ít bụi càng tốt. Nếu quá nhiều bụi sinh ra, thì việc tách vỏ ra khỏi bụi rất
khó khăn.
4. Sàng phân loại:
Mục đích việc sàng phân loại là tăng khả năng phân ly vỏ ra khỏi hạt. Nếu hạt
nhỏ lẫn với vỏ lớn thì khi thổi vỏ, thì cả vỏ lớn và hạt nhỏ đều bay. Thường
người ta phân làm 4 đến 5 cỡ hạt. Nhiều cỡ hơn thì quá phức tạp, ít cỡ hơn thì
việc phân ly hiệu suất thấp.
Sàng phân loại thường dùng loại sàn lắc bằng bánh cam hay sàng rung.
5. Tách vỏ:
Về nguyên lý thổi vỏ hạt ca cao thì không khác gì hình ảnh cô thôn nữ làng quê
cầm thúng thóc đổ từ trên cao xuống để gió thổi hạt lúa lép ra khỏi hạt lúa
chắc. Tuy nhiên, thổi vỏ hạt ca cao khó hơn nhiều vì vỏ hạt ca cao khá dày và
tỉ trọng nặng không kém nhân hạt ca cao.
Lượng vỏ tách ra khỏi hạt trong quá trình này chiếm 20 đến 25% lượng hạt ban
đầu. Ở nước ngoài, vỏ này có thể dùng trích chất flavanol chống oxy hóa tự
nhiên là theobromine có tác chống các gốc tự do gây lão hóa. Hiện giờ, sản
lượng hạt Việt Nam còn rất thấp nên chưa ai tận dụng lượng vỏ thải ra này.
6. Nghiền ướt:
Hạt ca cao bị nghiền đến kích thước khoảng 100μm thì chuyển sang dạng lỏng sệt
gọi chocolate liquor hay chocolate mass. Tiếng Việt tương ứng của từ này là hạt
ca cao nghiền, hạt ca cao nhão, hạt ca cao sệt, sôcôla lỏng, vv. Tiếng Anh gọi
hạt ca cao ở trạng thái khô rắn là cocoa, ở trạng thái lỏng kết tinh rắn là
chocolate.
Nghiền ướt thì thực hiện bằng máy nghiền trục có làm lạnh bằng nước. Lý do phải
làm lạnh trục nghiền là trong quá trình nghiền phát sinh rất nhiều nhiệt làm bơ
ca cao chảy lỏng ra, giảm độ ma sát giữa hạt ca cao và trục nghiền, và hậu quả
là giảm năng suất nghiền.
7. Kiềm hóa:
Hạt ca cao lên men có rất nhiều acid acetic, acid lactic, v.v. và vẫn còn tồn
dư sau quá trình rang hạt. Việc kiềm hóa làm hạt bớt chua đi hoặc hoàn toàn
không chua, pH từ 4- 4,5 được nâng lên 6,8 – 7,2. Việc kiềm hóa này cũng làm
hạt ca cao đắng hơn và sậm màu hơn do các polyphenol phản ứng với chất kiềm.
Quá trình này còn có tên gọi Dutch Process. Ở Bắc Mỹ, đặc biệt là Hoa Kỳ, rất
nhiều sản xuất chocolate từ hạt ca cao KHÔNG LÊN MEN nên hạt không bị chua, do
đó cũng không cần giai đoạng kiềm hóa làm gì, vừa đơn giản vừa giảm chi phí. Do
đó, chất lượng chocolate Hoa Kỳ rất khác chất lượng chocolate Châu Âu.
Chất kiềm hóa thường dùng là dung dịch K2CO3 hay Na2CO3
. Việc kiềm hóa dư có thể xà phòng hóa bơ ca cao.
Sau đó, người ta phải khuấy tách nước ở nhiệt độ khoảng 60-70oC để
nước bay hơi dần dần.
8. Ép bơ:
Bơ ca cao là thành phần không thể thiếu trong chocolate ngon. Bơ ca cao ngoài
chuyện có một lượng lớn chất polyphenol chống oxy hóa tự nhiên, nó có khả năng
kết tinh đa hình tùy theo nhiệt độ. Dạng bơ kết tinh beta 3 hay dạng V (5) của
bơ ca cao có cấu trúc tinh thể mịn, bóng, vị thơm đặc trưng, tan chảy nhanh
dưới thân nhiệt. Chính đặc điểm này giúp chocolate sản xuất từ bơ ca cao có vị
thơm ngon hơn loại chocolate dùng bơ thực vật thay thế CBS (Cocoa Butter
Subtitute hay Cocoa Butter Replacer). Chocolate Liên Minh Châu Âu chỉ cho phép
dùng 5% bơ thực vật thay thế. Tuy nhiên, các hãng chocolate Châu Âu nổi tiếng
thường dùng hoàn toàn bơ ca cao để giữ chất lượng. Hoa Kỳ thì không cho phép sử
dụng bơ thay thế trong các sản phẩm có mang tên Chocolate.
Ép bơ ca cao phức tạp hơn ép dầu thực vật khác, do ép bơ ca cao cần gia nhiệt
để bơ linh động thoát ra ngoài. Áp suất ép bơ có thể lên hơn 200 kg/cm2. Sau
khi ép bơ, ta có bột ca cao chứa 18 -22% bơ ca cao. Muốn lấy tiếp bơ ca cao ra
khỏi bột, người ta phải qua tiếp giai đoạn trích ly bằng dung môi để lấy tiếp
bơ ca cao. Bột sau trích ly chỉ còn 10 -12% bơ. Do việc ép tách bơ khá phức
tạp, nên giá thành bơ ép ca cao đắt gấp 4 -5 lần bơ thực vật thay thế.
9. Phối trộn:
Sau khi thêm bơ ca cao, đường, sữa bột, chất nhũ hóa Lecithine đậu nành vào hạt
ca cao nghiền mịn (chocolate liquor), ta được một hỗn hợp khô sệt. Hỗn hợp này
phải đồng hóa bằng cánh đảo trộn. Khi đồng nhất rồi thì lại tương đối lỏng sệt.
10. Nghiền tinh:
Giai đoạn nghiền này cũng khá quan trọng trong việc quyết định chất lượng cảm
quan của chocolate. Giai đoạn nghiền tinh rất phức tạp về thiết bị hay hiệu
suất. Đối với nhà máy lớn, người ta dùng máy nghiền 5 trục để giảm kích thước
chocolate từ 100μm xuống 18 -20 μm. Máy này có năng suất và hiệu suất năng
lượng rất cao, tuy nhiên giá thành máy rất đắt, bảo trì rất phức tạp trong việc
đảm bảo khoảng cách khe rất nhỏ giữa các trục nghiền, phải có nước làm nguội cả
5 trục nghiền, khi trục mòn phải gửi về hãng sản xuất máy để phục chế bề mặt
trục, vv.
Do đó, đa số sử dụng máy nghiền bi có thiết kế đơn giản, giá thành rẻ, dễ vận
hành nhưng năng suất và hiệu suất thấp, ồn ào, vv.
Trong chế biến chocolate tại nhà với số lượng ít, người ta dùng máy nghiền con
lăn bằng đá chạy vòng vòng suốt ngày đêm để nghiền một hai ký chocolate.
11. Ủ đảo trộn:
Đây là một trong những công đoạn khác biệt quan trọng nhất giữa Chocolate Châu
Âu và Mỹ. Các nhà sản xuất chocolate của Mỹ thường dùng hạt ca cao chưa lên men
nên công đoạn này có thể không cần nhằm tiết kiệm thời gian, năng lượng và giảm
giá thành. Các nhà sản xuất chocolate châu Âu luôn luôn sử dụng hạt ca cao lên
men nên chocolate thường có mùi rất nồng, công đoạn ủ đảo trộn trong thời gian
dài 4 đến 100 giờ để làm các mùi khó chịu hay acid bay hơi. Sự chà xát, đảo trộn
các phần tử rắn như hạt ca cao, sữa, đường, vv trong thời gian dài và nhiệt độ
cao 50 -80oC, làm cho chocolate trở nên đồng nhất, trơn mịn.
12. Ổn định nhiệt:
Điểm đặc biệt của bơ ca cao là tính kết tinh đa hình mà không phải dạng kết
tinh nào cũng làm chocolate ngon. Chocolate kết tinh ở dạng V hay beta 3 là
ngon nhất, bề mặt bóng mịn, cấu trúc đồng nhất.
Chocolate đã nóng chảy hoàn toàn , thường ở nhiệt độ 40 -50oC, được làm nguội
từ từ có khuấy trộn đến khoảng 34-35oC. Sau đó, người ta trích khoảng 1 phần 5
chocolate để đi tạo mầm kết tinh bằng cách khuấy đảo trộn ở nhiệt độ 29oC trong
thời gian 20 đến 30 phút. Trộn hai thứ chocolate này lại thì toàn bộ chocolate
sẽ được gây mầm kết tinh ở nhiệt độ 32oC. Nhiệt độ thấp hơn thì có thêm mầm
tinh thể dạng III, dạng IV dễ chảy và không ngon, nhiệt độ cao quá thì cũng mất
mầm tinh thể, rót khuôn được không lấy ra được.
13. Rót khuôn:
Việc rót khuôn không hề đơn giản vì độ nhớt rất cao, lại phải ổn định nhiệt độ,
phải đúng cân lượng nữa, không được xáo trộn mạnh dễ tạo bọt, vv. Nói chung rót
khuôn cho dạng thanh 100 gram hay 200 gram là dễ nhất. Những miếng chocolate
con cá, hoa trái, vv trên một vĩ khuôn sẽ khó rót khuôn hơn vì phải định vị chỗ
rót hay phải có nhiều đầu rót.
14. Làm lạnh:
Sau khi rót khuôn, chocolate phải nhanh chóng đem làm lạnh ở nhiệt độ khoảng 20
đến 22oC để chocolate kết tinh theo dạng mầm đã có trong giai đoạn ổn định
nhiệt. Chocolate đủ lạnh sẽ kết tinh và co ngót thể tích 3% làm cho việc tháo
khuôn dễ dàng. Kết quả ta có thanh chocolate bóng mịn, đồng nhất.
15. Bao gói:
Việc chocolate tiếp xúc lâu dài với không khí trong môi trường hở sẽ làm oxy
hóa chocolate, ăn không ngon. Đường trong chocolate còn có thể hút ẩm làm tăng
dần hàm lượng nước trong sữa bột, tạo điều kiện cho nấm mốc phát triển trên bề
mặt. Bao gói kín chocolate bằng giấy nhôm, bao nhựa, vv để giữ hương vị ban đầu
của chocolate.
Bảo quản:
Nhiệt độ tối ưu để bảo quản chocolate là 20 đến 25oC. Để chocolate trong ngăn
đá hay ngăn dưới của tủ lạnh là không hẳn là nhiệt độ tối ưu vì nó làm cả bơ
sữa kết tinh thành những vệt trắng trên bề mặt.
Chocolate rất sợ nhiệt độ cao và nắng chiếu trực tiếp vì một khi chocolate đã
chảy, nó dễ dàng kết tinh lại thô nhám, mất ngon
Một số nguyên liệu chúng tôi có thể cung cấp cho quy trình sản xuất Chocolate:
Tag: Cung cấp các loại nguyên liệu - phụ gia- hóa chất THỰC PHẨM nhập khẩu tại Nha Trang, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, Đắk Nông - 098.996.5501 - vuongcong.kv@gmail.com